THÔNG TIN KHU VỰC Xã Phú Thị, Huyện Gia Lâm


Lịch sử

Xã Phú Thị nằm trong vùng đồng bằng Bắc bộ, có nét đặc trưng vùng “tam giác” sông Hồng, sông Đuống (Thiên Đức) nên địa hình bằng phẳng. Đến nay, đất đai đồng ruộng Phú Thị còn đậm dấu tích quá trình bồi đắp phù sa của sông Nghĩa Giang - một nhánh lớn của sông Thiên Đức xưa, nay sông bị triệt dòng, đã và đang biến dạng thành một dải ao, hồ, chạy dọc theo đường Ỷ Lan, từ thôn Lời, xã Đặng Xá, qua xã Phú Thị đến xã Dương Xá và xã Dương Quang, rồi sang huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.

Xã Phú Thị gồm các thôn: Đại Bản, Hàn Lạc, Phú Thụy (phố Sủi), Tô Khê, Trân Tảo - mà trước kia (thời nhà Nguyễn) vốn là 4 xã: Hàn Lạc, Phú Thụy, Tô Khê, Trân Tảo thuộc tổng Kim Sơn huyện Gia Lâm phủ Thuận An tỉnh Bắc Ninh.

Sau năm 1945, xã Hàn Lạc tách làm 2: Đại Bản và Hàn Lạc, tạo thành 5 thôn của xã Phú Thụy ngày nay.

Trước năm 1965 xã Phú Thị có tên gọi là Quyết Chiến, sau được đổi thành Phú Thị.

Làng Phú Thụy (kẻ Sủi), tức là thôn Phú Thụy, là một làng cổ từ thời Lý - Trần, quê của Nguyên phi Ỷ Lan. Tên gọi Sủi, là một từ Việt cổ, có các biến âm là Lỗi hay Luỗi, sau được Hán Việt hóa thành Thổ Lỗi.

1. Giới thiệu về xã Phú Thị

Xã Phú Thị nằm ở bờ Nam sông Đuống, huyện Gia Lâm. Xã bao gồm 5 thôn: Phú Thụy hay làng Sủi (bao gồm cả khu dân cư Phố Sủi và Cầu Giàng), Tô Khê (hay còn gọi là làng To), Trân Tảo (hay còn gọi là làng Táo), Hàn Lạc (hay còn gọi là làng Hàn) và thôn Đại Bản.

2. Vị trí địa lý

Xã Phú Thị nằm bên bờ Nam sông Đuống, cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 12km, có vị trí địa lý:

  • Phía Bắc và Tây giáp xã Đặng Xá
  • Phía Tây Nam giáp thị trấn Trâu Quỳ
  • Phía Nam giáp xã Dương Xá
  • Phía Đông Nam giáp xã Dương Quang
  • Phía Đông giáp xã Kim Sơn
  • Phía Đông Bắc giáp xã Phù Đổng với ranh giới tự nhiên là sông Đuống.

Bản đồ xã Phú Thị

Bản đồ xã Phú Thị

3. Diện tích và dân số 

Xã Phú Thị hiện nay có diện tích 476 ha với trên 7000 dân.

4. Kinh tế - Văn hóa - Xã hội

Là xã có địa thế thuận lợi trong phát triển kinh tế - xã hội nên những năm gần đây xã Phú Thị đã thực hiện nhiều dự án thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện quy hoạch khu công nghiệp vừa và nhỏ cùng các công trình quốc phòng. Vì thế để đảm bảo an sinh lương thực trong điều kiện đất nông nghiệp ngày một thu hẹp, xã Phú Thị đã vận động nông hộ dồn điền đổi thửa hoặc thực hiện việc gom ruộng cho thuê thầu để thực hiện các mô hình kinh tế chuyển đổi. Hiện toàn xã đã chuyển 97,5 ha đất chuyên trồng ngô ngoài bãi ven sông sang trồng chuối tây và chuối tiêu hồng cho thu nhập cao hơn nhiều lần trồng ngô. Diện tích gieo cấy chỉ còn gần 30 ha.

Việc chăn nuôi gia súc cũng có sự thay đổi về quy mô. Hiện toàn xã có trên 100 hộ nuôi lợn theo quy mô vừa và nhỏ. Trong đó đa phần nuôi từ 10 đến 40 con một lứa. Riêng các hộ thôn Phú Thị đã chuyển hầu hết ruộng cấy lúa trước làng sang trồng các loại rau xanh theo quy trình an toàn để cung cấp cho các bếp ăn tập thể trong khu công nghiệp.

Bên cạnh phát triển nghề nông theo hướng bền vững, người dân Phú Thị còn phát triển mạnh dịch vụ cho thuê trọ, vận chuyển, chế biến thực phẩm, kinh doanh buôn bán tại các chợ và trên các trục quốc lộ, góp phần nâng bình quân thu nhập 1 khẩu năm 2011 lên 14 triệu 430 nghìn đồng, tăng 35,6% so với năm 2010.

Về văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến rõ nét, Trường Tiểu học, Trạm y tế đã đạt chuẩn Quốc gia. Đã có 4/5 thôn được xây Nhà văn hóa. Nhà ở dân cư đã xóa hết nhà tạm, nhà dột nát, chủ yếu nhà ở hiện nay là nhà cao tầng. Năm 2011, 90% số hộ trong xã được công nhận là gia đình văn hóa. Làng Đại Bản giữ vững thành tích làng Văn hóa 4 năm liên tục.

Bằng việc phát huy nội lực, cộng với đầu tư của nhà nước, xã Phú Thị đã và đang có bước phát triển nhảy vọt trong phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh hướng đến mục tiêu xây dựng dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

5. Truyền thống cách mạng vẻ vang

Lịch sử xã Phú Thị dưới thời thực dân Pháp thống trị là lịch sử đấu tranh vô cùng anh dũng, kiên cường. Ngày từ những ngày đầu khi Thực dân Pháp mang quân đánh thành Hà Nội qua đất Phú Thị - Gia Lâm đều vấp phải lực lượng kháng chiến rất mạnh và đã bị giáng những đòn quyết tử. Sau khi Đảng CSVN ra đời được giác ngộ và tiếp thu ánh sáng của Đảng, các tầng lớp nhân dân Phú Thị đã theo Đảng làm cách mạng tham gia giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám và tiếp tục bám trụ kiên cường chống giặc nống lấn chiếm góp phần đập tan các trận càn quét tội ác của giặc Pháp. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong kháng chiến chống Pháp, xã Phú Thị đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng danh hiệu cao quý: Đơn vị Anh hùng LLVTND.

Qua các cuộc chiến tranh nhân dân, toàn xã có 156 người con ưu tú đã anh dũng hy sinh, có 13 chiến sỹ bị địch bắt và tù đày cùng hàng chục người đã để lại một phần thân thể nơi chiến trường hoặc mang theo các bệnh chiến tranh suốt cuộc đời.

6. Di tích

Xã Phú Thị có nhiều di tích có giá trị quý như:

  • Di tích đình Tô Khê dân địa phương trong vùng quen gọi là đình làng To thờ Trần Văn Xương và Trần Văn Khúc là tướng của Phù Đổng Thiên Vương. Đây là di tích nghệ thuật cấp quốc gia đã được xếp hạng 1995.
  • Di tích tích đình Trân Tảo hay đình Táo thờ Lý Công Tấn là vị tướng của Lý Nam Đế. Di tích được Bộ văn hóa thông tin xếp hạng về lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật 1990.
  • Chùa Sủi (Đại Dương Sùng Phúc Tự) là một ngôi chùa cổ được xây dựng từ khá sớm. Chùa Sủi đã được Bộ văn hóa thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc và nghệ thuật cấp quốc gia 1989.
  • Đình làng Sủi thờ Tây Vị Đại Vương là tướng nhà Đinh có tên húy Đào Liên Hoa quê ở Thanh Hóa, con ông Đào Lan và bà Nguyễn Thị Huệ. Ông rất thông minh, ham học, năm 15 tuổi đã xin cha cho đi học ở quận Vũ Ninh, phủ Từ Sơn, huyện Đông Ngàn, thôn Hội Phụ (nay thuộc xã Đông Hội, huyện Đông Anh). Khi biết ở Hoa Lư có Đinh Bộ Lĩnh khởi nghĩa dẹp loạn 12 sứ quân, ông xin đầu quân và được phong làm tướng quân. Với những chiến công có được, ông được Đinh Bộ Lĩnh phong làm Tây Vị Đại Vương rồi được cử đi Chánh sứ sang Trung Quốc. Khi huyện Gia Lâm có giặc loạn nổi lên, ông đem quân đi dẹp rồi lập đồn cùng trang ấp ở Thổ Lỗi, dậy nhân dân sản xuất, xây nhà cửa lo cuộc sống. Khi ông mất (vào ngày 25 tháng 12 âm lịch), vua phong ông là Thượng Đẳng Tôn Thần và hạ chiếu cho các làng thuộc địa hạt ông cai quản phải lập đình để hương khói phụng thờ đời đời. Dân làng Sủi đã lập đình Sủi thờ ông và tôn ông là Thành hoàng làng.

7. Danh nhân

  • Hoàng thái hậu Ỷ Lan (1044 - 1117)
  • Nguyễn Huy Nhuận (1678 - 1758) - tiến sĩ, Tham tụng; Thượng thư trải 5 bộ, Tri Quốc Tử Giám, đã được đặt tên đường tại quê hương Gia Lâm.
  • Đoàn Bá Dung - tiến sĩ, Thượng thư;
  • Cao Dương Trạc - tiến sĩ, Thượng thư;
  • Trịnh Bá Tướng - tiến sĩ, Thượng thư;
  • Nguyễn Huy Mãn (1688 - 1739) - tiến sĩ khoa Tân Sửu (1721), Giám sinh trường Quốc Tử Giám, Gia thần trong phủ Lượng quốc thuộc Vương phủ chúa Trịnh, giữ chức Đô Ngự Sử, Hiến sát sứ Sơn Nam, Đốc đồng Thanh Hoa, thầy dạy hai anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Nghiễm (quê Tiên Điền, Hà Tĩnh) đều đỗ tiến sĩ; Nguyễn Nghiễm là thân phụ của thi hào Nguyễn Du.
  • Nguyễn Huy Thuật (1690- ?) - tiến sĩ khoa Quý Sửu (1733), văn võ song toàn, Đề hình Giám sát Ngự sử, Hiến sát sứ xứ Sơn Tây, Đốc đồng xứ Kinh Bắc, Thanh Hoa; Tham chính xứ Sơn Tây, Hàn lâm viện Thừa chỉ. Khi về hưu, cụ được chúa Trịnh tặng ba chữ "Kế phương đình" và bốn câu đối;
  • Nguyễn Huy Dận (1708 - 1780), hiệu Giới Am, lấy con gái quan Hộ Bộ Thượng thư Cao Dương Trạc (cùng làng Sủi); tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1748), Tri phủ Từ Sơn, Hàn lâm viện Thị chế, Đông các Hiệu thư, Thái thường Tự khanh, Đốc đồng An Quảng, Sơn Nam, Tả Tham chính Thái Nguyên. Cụ có trước tác để lại, trong đó có bài văn bia Hữu công thôn nội bi ký/ Vĩnh cửu bất san được dựng tại đền thờ Sỹ Nhiếp (xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
  • Nguyễn Huy Cẩn, tức Cận (1729 - 1790), tên hiệu là Phương Am, Hội nguyên tiến sĩ, tiến sĩ khoa Canh Thìn (1760), Tri phủ Lạng Giang, sau từ quan, về mở trường Phương Am dạy học. Cụ có nhiều tác phẩm thơ văn, trong số đó, sau này được học trò là Cao Huy Diệu (cùng làng) tập hợp và soạn thành cuốn "Phương Am Nguyễn tiên sinh truyện" ghi lại 91 bài thơ của thầy mình (hiện vẫn còn ở Viện Hán Nôm); cụ còn là tác giả của bản "Tuyên văn Mục lục" cả chữ Hán và chữ Nôm có nội dung nhân bản và giáo dục cao, ca ngợi phong thổ, cảnh đẹp và truyền thống Làng Sủi.
  • Nguyễn Huy Lượng (1759 - 1808), đỗ Hương cống, Nhà chính trị, Nhà thơ nổi tiếng, giữ chức Hữu Thị Lang Bộ Hộ, danh nhân phò Tây Sơn, sáng tác nhiều thơ văn (Tụng tây hồ phú, Cung oán thi, Lượng như long phú, Văn tế trận vong tướng sỹ, Thơ Hồ Tây, Diễn ca "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn, Ngự đạo hành cung nhật trình, Tam thiên tự giải nghĩa, Tây hồ cảnh tụng, Văn tế con dâu Hoàng Phùng Cơ...), trong đó nổi bật nhất là danh tác "Tụng Tây Hồ phú". Cụ đã được đặt tên đường tại nhiều thành phố lớn ở Việt Nam như Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, TT-Huế.
  • Cao Bá Quát (1809 -1855): Nhà thơ nổi tiếng, đỗ Hương cống (cử nhân). Đã được đặt tên đường ở nhiều thành phố lớn ở Việt Nam.

8. Giao thông

Các tuyến đường và khung giá đất

Xã Phú Thị có hệ thống giao thông đường bộ rất thuận lợi:

  • Đường Dương Đức Hiền (QL17): nối từ Nguyễn Đức Thuận (QL5) tại Kiên Thành (thị trấn Trâu Quỳ) kéo dài sang tỉnh Bắc Ninh.
  • Đường Ỷ Lan: Từ Dốc Lời (xã Đặng Xá) đi qua xã và kéo dài đến thị trấn Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
  • Đường Phú Thị: từ ngã ba giao Đường Dương Đức Hiền đi ngã ba thôn Bài Tâm (xã Dương Quang)
  • Đường Nguyễn Huy Nhuận đi quốc lộ 5 - Đất ở đô thị - giá từ 7,8 triệu/m2 đến 15,9 triệu/m2.

Hệ thống xe buýt: 52A, 52B, 204.

Những xã/phường khác